Lúc Tăng Quốc Phiên vừa nhận chức ở Hàn Lâm Viện, ông là cấp dưới của Triệu Tiếp. Một lần nhân cơ hội cha mẹ vào kinh, Triệu Tiếp muốn gửi thiếp mời các đồng sự đến tham dự tiệc. Tăng Quốc Phiên không quen mắt với cách làm “mượn cơ hội” này nên đã từ chối không đi. Triệu Tiếp thấy vậy, trong lòng vô cùng bất mãn.
Sau này, Tăng Quốc Phiên được thăng mấy cấp, làm chức quan cao hơn cả Triệu Tiếp, Triệu Tiếp càng bất mãn hơn, nhưng cũng chỉ có thể để ở trong lòng mà thôi.
Về sau, Tăng Quốc Phiên bị người khác hãm hại buộc tội, thậm chí bị giáng hạ chức và lại trở thành thuộc hạ của Triệu Tiếp. Không những thế, Tăng Quốc Phiên cả đời còn bị bệnh nấm ngoài da.
Đợt ấy, ông bị bệnh phát tác, đau đớn đến mức không thể ngồi lâu được. Ông liền đi gặp cấp trên xin phép nghỉ ở nhà hai ngày. Triệu Tiếp mãi mới đợi được đến ngày có cơ hội báo thù, nên đương nhiên sẽ không dễ dàng bỏ qua.
Ông ta lên mặt răn dạy Tăng Quốc Phiên: “Ông vừa mới bị giáng chức vài ngày thì lại xin nghỉ phép, có phải là khinh thường bản quan không? Lời xin phép của ông, ta không đồng ý”. Tăng Quốc Phiên bất đắc dĩ đành phải vừa đau ốm vừa làm việc.
Kể từ lúc Tăng Quốc Phiên bị giáng chức, chỉ cần có cơ hội là Triệu Tiếp sẽ răn dạy Tăng Quốc Phiên một phen. Hơn nữa, ông ta còn đi khắp nơi nói xấu ông với đồng nghiệp, nhưng Tăng Quốc Phiên trước sau đều không đấu lại.
Về sau, Tăng Quốc Phiên được thăng chức lên làm quan nhị phẩm. Ông được ban cho chiếc kiệu tám người khiêng gọi là Lục Ni kiệu, nhưng ông vẫn luôn luôn tiết kiệm, khiêm tốn, không muốn cao ngạo. Vì thế, ông quyết định dùng chiếc Lam Ni kiệu, là chiếc kiệu bốn người khiêng như trước đây.
Theo luật lệ, ở bất cứ nơi đâu, người ngồi trên kiệu bốn người khiêng khi nhìn thấy người ngồi trên kiệu tám người khiêng thì đều phải cung kính nhường đường. Nếu không tuân thủ, thì chủ nhân của chiếc kiệu bốn người khiêng sẽ bị đánh đòn.
Lần ấy, Tăng Quốc Phiên ngồi trong Lam Ni kiệu để đi ra ngoài. Khi kiệu của ông đi đến một ngõ nhỏ chật hẹp thì thấy ở phía sau, một chiếc Lục Ni kiệu cũng đang đi tới. Ở vào tình huống này, Tăng Quốc Phiên có thể không cần phải nhường đường. Nhưng Tăng Quốc Phiên vẫn sai người hầu đi sát sang một bên, để cho chiếc kiệu phía sau đi lên trước. Nhưng ngay cả đã đứng sát sang một bên rồi thì chiếc kiệu phía sau vẫn không thể qua được.
Người nâng Lục Ni kiệu thấy thế, thúc ngựa chạy đến, không nghe lời phân trần, kéo rèm kiệu ra, bắt Tăng Quốc Phiên và tát vào mặt ông hai cái rất mạnh.
Nhưng người ngồi trong Lục Ni kiệu kia lại chính là một vị quan tam phẩm, so với Tăng Quốc Phiên thì còn thấp hơn một cấp. Vị quan tam phẩm vén rèm nhìn thấy Tăng Quốc Phiên, sợ hãi quá, chạy vội đến chỗ ông, quỳ gối, dập đầu nhận lỗi.
Tất cả mọi người lặng im chờ Tăng Quốc Phiên phân xử. Họ cho rằng, Tăng Quốc Phiên sẽ tát hai cái như trời giáng vào mặt vị quan tam phẩm là coi như sự tình được giải quyết xong.
Nhưng không ngờ, Tăng Quốc Phiên nâng vị quan tam phẩm dậy và nhẹ nhàng nói: “Quả thực là kiệu của ta đã cản đường đi của đại nhân, đại nhân hãy lên kiệu, gấp rút lên đường mới là việc quan trọng hơn”.
Mọi người ai nấy đều sững sỡ thầm nghĩ: “Quan nhị phẩm bị quan tam phẩm tát cho hai cái như trời giáng vậy mà vẫn như không có chuyện gì, lại còn ân cần với đối phương, quả là khác người!”.
Tăng Quốc Phiên không những xử sự như vậy mà còn dặn kỹ người hầu rằng:“Phàm là ở bất kỳ đâu, nhìn thấy Lục Ni kiệu thì cho dù đối phương là quan nhỏ thì cũng phải lập tức nhường đường!”.
Tăng Quốc Phiên nói: “Kẻ sĩ có ba việc không tranh đấu, đó là: Chớ tranh đấu danh với người quân tử, chớ tranh đấu lợi với tiểu nhân và chớ cùng trời đất so đấu khôn khéo”.
Không so đo sẽ không khiến bản thân rơi vào vòng xoáy tranh đấu, không bị mệt bởi “người lừa ta gạt”, không tạo ra nhiều người thù địch, không sợ lúc nào cũng bị người khác hãm hại. Không so đo còn tiết kiệm được rất nhiều thời gian, có thừa tinh lực để làm việc mà mình mong muốn.
Bởi vì không so đo mọi chuyện, chỉ một lòng một dạ làm việc, làm người nên Tăng Quốc Phiên đã tạo ra một kỳ tích ở chốn quan trường, đó là chỉ trong 9 năm ông đã được tăng 10 cấp bậc, cuối cùng trở thành một danh thần, được người đời mãi mãi ca ngợi.